hl88 Vì sao Việt Nam nhiều lần sáp nhập và chia tách tỉnh thành

Đăng ngày:

Online Games hl88

Việt Nam hiện có 63 tỉnh, thành phố . Từ năm 1975 đến nay, nước ta trải qua 9 lần chia tách, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh.

Năm 2008, Quốc hội thông qua nghị quyết sáp nhập tỉnh Hà Tây, 4 xã của Hòa Bình và huyện Mê Linh về TP Hà Nội.

Mô hình quản trị từng thời đại

TS Nguyễn Sĩ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho biết, thời vua Minh Mạng , số đơn vị hành chính cấp tỉnh là 31; dưới tỉnh có phủ, huyện và xã. Mô hình này phù hợp với bối cảnh chính trị thời phong kiến, đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội nông thôn và duy trì trật tự trong xã hội có cấu trúc phân cấp rõ ràng.

Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam , mô hình hành chính được cải tổ theo hướng hoàn toàn khác để phục vụ cho mục đích khai thác kinh tế và quản lý thuộc địa.

Theo ông Dũng, dưới chế độ Pháp thuộc, nước ta được chia thành 58 tỉnh theo ba vùng địa lý , nhằm tối ưu hóa công tác quản lý và khai thác nguồn lực.

"Ngay sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước chủ trương sáp nhập các tỉnh để hình thành các đơn vị hành chính có quy mô đủ lớn, thuận lợi cho phát triển kinh tế, quy hoạch hạ tầng và tổ chức sản xuất. Đến năm 1978, cả nước chỉ còn 38 tỉnh, nhằm tối ưu hóa nguồn lực và tăng cường sự kiểm soát tập trung trong bối cảnh xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa", TS Dũng nói.

ts-nguyen-si-dung-13303560.jpg

Số lượng các tỉnh luôn thay đổi, phản ánh nhu cầu và mô hình quản trị của từng thời đại.

TS Nguyễn Sĩ Dũng

Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, nhiều tỉnh rộng lớn gặp khó khăn trong quản lý hành chính, điều hành kinh tế - xã hội và cung cấp dịch vụ công.

Điều này trở nên đặc biệt rõ ràng khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, đòi hỏi một hệ thống quản lý linh hoạt hơn, gần dân hơn và phù hợp với đặc điểm từng địa phương.

Vì vậy, từ cuối những năm 1980 đến 1990, Nhà nước bắt đầu chia tách nhiều tỉnh, dần hình thành con số 63 tỉnh, thành như hiện nay.

Phân tích về mặt tích cực khi tách nhỏ các tỉnh thành, ông Dũng dẫn số liệu của Tổng Cục thống kê trong giai đoạn 2000-2010, mức tăng trưởng GDP trung bình của nhiều tỉnh được cải thiện , đạt khoảng 8-9%/năm, vượt trội hơn so với mức tăng trưởng trung bình toàn quốc vào khoảng 6-7%/năm.

Cụ thể, tại Bình Dương, GDP bình quân đầu người tăng từ mức khoảng 1.000 USD lên hơn 3.000 USD .

Cùng với quá trình cải cách hành chính, số lượng dự án đầu tư FDI tại các tỉnh cũng tăng đáng kể, với một số báo cáo chỉ ra mức tăng 30-50% so với giai đoạn trước đó.

"Những số liệu này minh chứng rằng, khi được quản trị theo quy mô phù hợp, các tỉnh có thể nhanh chóng đưa ra những chính sách phát triển đúng hướng. Từ đó tạo ra môi trường thuận lợi cho các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ, cải thiện đời sống Nhân dân và góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc gia", ông Nguyễn Sĩ Dũng nêu quan điểm.

Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội nhìn nhận, mỗi mô hình phân chia cấp tỉnh đều có thời điểm. Mặc dù việc chia tách tỉnh mang lại nhiều kết quả tích cực, nhưng trong bối cảnh hiện nay, nhiều yếu tố thay đổi đáng kể khiến việc sáp nhập các tỉnh trở nên cần thiết.

Theo đó, chủ trương sáp nhập tỉnh một lần nữa được đặt ra với mục tiêu chính là tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước và tối ưu hóa nguồn lực phát triển. Việc duy trì quá nhiều tỉnh khiến bộ máy hành chính trở nên cồng kềnh, tốn kém ngân sách, trong khi nhiều tỉnh có quy mô nhỏ, nguồn lực hạn chế, khó thu hút đầu tư lớn và thiếu tính liên kết vùng.

"Số lượng các tỉnh luôn thay đổi, phản ánh nhu cầu và mô hình quản trị của từng thời đại. Nếu như lần đầu sáp nhập, Nhà nước mong muốn có các tỉnh đủ lớn để phát triển kinh tế, còn khi chia tách là để phù hợp với năng lực quản lý, thì lần sáp nhập này nhằm tinh giản bộ máy, giảm bớt tầng nấc trung gian và nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia", TS Nguyễn Sĩ Dũng nhấn mạnh.

Cùng bàn luận, ông Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ cơ sở Đảng cho biết, nhiều ý kiến dư luận băn khoăn: "Vì sao trước đây tách tỉnh, nay lại nhập lại?"

Theo ông Hà, các đơn vị hành chính tách ra hay nhập vào có nhiều nguyên nhân, nhưng luôn đảm bảo nguyên tắc chính trị là "Đảng hoạch định đường lối chính trị, tổ chức và cán bộ phải phục vụ đường lối chính trị đó".

"Khi có đường lối phải thiết lập bộ máy của tổ chức chính trị như thế nào cho phù hợp. Có bộ máy rồi thì phải đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ phải phục vụ, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, mà nhiệm vụ chính trị thì mỗi giai đoạn cách mạng sẽ khác nhau", ông Hà nhấn mạnh.

Ông lấy ví dụ sau ngày giải phóng, khi cán bộ muốn từ Hà Nội lên Sơn La công tác phải đi trước một ngày để nghỉ ngơi, tắm giặt, sáng hôm sau mới làm việc.

Hay ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, thủ phủ từ tỉnh này sang tỉnh kia chỉ dưới 50km. Ví dụ như từ UBND TP Cần Thơ sang đến UBND tỉnh Vĩnh Long khoảng 40km để dễ quản lý.

"Người ta nói vui rằng đặt trụ sở thế nào để khoảng cách pháo bắn pháo được từ điểm này đến điểm kia là vừa. Rõ ràng thời điểm đó, đường xá khó khăn, phương tiện khó khăn, thông tin liên lạc khó khăn, trình độ cán bộ cũng hạn chế. Nếu tỉnh lớn quá thì khó quản lý, rất vất vả", nguyên vụ trưởng nêu thực tế.

Còn trong bối cảnh hiện nay, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phù hợp với tình hình mới.

Trước đây, khi khoảng cách về hạ tầng giao thông, liên lạc còn hạn chế, các tỉnh nhỏ có thể phát huy tính tự chủ địa phương, nhưng lại gặp khó khăn trong việc đồng bộ hóa các chính sách toàn quốc và tối ưu hóa nguồn lực.

"Hiện nay, hạ tầng hiện đại, phương tiện đa dạng, trình độ cán bộ được nâng cao cùng sự phát triển của công nghệ thông tin, khoảng cách giữa trung tâm và địa phương gần như không còn là rào cản, cho phép Trung ương có thể giám sát và điều phối hiệu quả ngay cả khi các tỉnh được sáp nhập thành những đơn vị hành chính có quy mô lớn", ông Hà khẳng định.

Thách thức khi sáp nhập các tỉnh thành

Việc sáp nhập tỉnh là chủ trương lớn nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển kinh tế, song TS Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng, quá trình triển khai chắc chắn gặp phải nhiều khó khăn, thách thức.

Trước tiên, ông Dũng đánh giá, một trong những rào cản lớn nhất khi sáp nhập tỉnh là tâm lý ngại thay đổi của cán bộ, công chức và người dân.

Với đội ngũ cán bộ, công chức, việc sáp nhập có thể ảnh hưởng đến vị trí công tác, cơ hội thăng tiến, thậm chí dẫn đến việc cắt giảm biên chế. Điều này có thể tạo ra tâm lý lo lắng, thiếu đồng thuận, thậm chí có những phản ứng tiêu cực.

Còn với người dân, sự thay đổi địa giới hành chính có thể ảnh hưởng đến thói quen sinh hoạt, quyền lợi về đất đai, hành chính và dịch vụ công.

Thách thức thứ hai, cũng liên quan đến yếu tố con người, đó là vấn đề tổ chức bộ máy và bố trí nhân sự.

"Sau khi sáp nhập, các đơn vị hành chính mới cần phải sắp xếp lại bộ máy tổ chức, phân bổ lại nhân sự và điều chỉnh các cơ quan chuyên môn. Việc hợp nhất các sở, ban, ngành, cơ quan cấp tỉnh có thể gây ra những chồng chéo chức năng, gián đoạn công tác, và đòi hỏi quá trình chuyển đổi thích ứng lâu dài", ông Dũng nhận định.

Thứ ba là thách thức về tài chính và nguồn lực. Ông Dũng cho rằng, việc sáp nhập đòi hỏi nguồn lực lớn để điều chỉnh cơ sở hạ tầng hành chính, đồng bộ hóa hệ thống dữ liệu, thay đổi con dấu, giấy tờ và tổ chức lại các dịch vụ công.

Vị chuyên gia lưu ý, nếu không có kế hoạch tài chính hợp lý, quá trình chuyển đổi có thể gây lãng phí hoặc làm giảm hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn đầu.

Thứ tư là vấn đề ảnh hưởng đến quyền lợi của địa phương sau sáp nhập.

Theo đó, trong quá trình sáp nhập, các tỉnh nhỏ có thể lo ngại bị "lép vế" so với các tỉnh lớn hơn về phân bổ ngân sách, đầu tư phát triển hoặc vị thế chính trị. Nếu không có chính sách hợp lý, có thể xảy ra tình trạng mất cân bằng trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các khu vực trong tỉnh mới.

Thách thức thứ năm được nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đưa ra là điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.

"Mỗi tỉnh hiện nay đều có chiến lược phát triển riêng, với quy hoạch tổng thể, chính sách thu hút đầu tư, quy hoạch đô thị, khu công nghiệp… Việc sáp nhập đòi hỏi phải điều chỉnh lại các quy hoạch này sao cho phù hợp với quy mô hành chính mới. Nếu không làm tốt, có thể xảy ra tình trạng thiếu đồng bộ, mâu thuẫn trong phát triển, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và thu hút đầu tư", ông Dũng nói.

Vấn đề nữa là khó khăn trong việc phân định lại đơn vị hành chính cấp huyện, xã.

Sau khi sáp nhập tỉnh, việc phân chia lại địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã có thể gặp phải những tranh chấp hoặc bất cập trong việc quản lý, cung cấp dịch vụ công. Nếu không giải quyết tốt, có thể dẫn đến khiếu kiện hoặc bất ổn trong một số khu vực.

Ngoài ra, TS Dũng cũng lưu ý đến khó khăn về sự khác biệt giữa các địa phương bởi mỗi tỉnh có đặc điểm lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội riêng. Khi sáp nhập, sự khác biệt này có thể dẫn đến những xáo trộn trong quản lý, điều hành và đời sống người dân.

Ông dẫn ví dụ phong tục tập quán, mô hình phát triển kinh tế, thậm chí cả cách thức quản lý hành chính giữa các tỉnh có thể không đồng nhất, gây ra những khó khăn trong việc thống nhất cơ chế vận hành.

"Để quá trình sáp nhập tỉnh diễn ra suôn sẻ, cần có kế hoạch rõ ràng, lộ trình thực hiện hợp lý, cơ chế giám sát chặt chẽ và chính sách hỗ trợ phù hợp cho các địa phương, cán bộ công chức và người dân. Quan trọng nhất là tạo được sự đồng thuận trong toàn xã hội để bảo đảm thành công của chủ trương này", ông Nguyễn Sĩ Dũng nói thêm.

Lịch sử những lần tách nhập tỉnh thành Việt Nam sau năm 1975.

Anh Văn